Bởi Elizabeth Wallace – Collegian Staff
Dịch bởi Julia Nguyen
Giáo sư Elizabeth McEneaney thuộc Đại học chuyên ngành Giáo dục Đại học Massachusetts và giáo sư Margaret Riley thuộc khoa Sinh học đã nhận được một khoản tài trợ trong vòng 3 năm từ Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation – NSF) để tiếp tục và mở rộng chương trình STEM AP (viết tắt của Science, Technology, Engineering, and Mathematics Ambassador’s Program – Chương trình Đại sứ Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán học).
Theo website của tổ chức, chương trình này nhằm mục đích “gia tăng mức độ lưu giữ và tốt nghiệp của sinh viên ngành STEM, và gia tăng số lượng sinh viên đăng ký chương trình sau đại học hoặc theo đuổi sự nghiệp trong các lĩnh vực thuộc ngành STEM.”
Cụ thể, mục tiêu của nguồn tài trợ là các nhóm đối tượng không tiêu biểu bao gồm các sinh viên thuộc thế hệ đầu tiên trong gia đình học đại học (first-year generation), sinh viên da màu và những người đủ điều kiện cho Pell Grants (Nguồn hỗ trợ học phí của chính phủ dành cho sinh viên bậc đại học có thu nhập thấp và một số sinh viên nhất định thuộc bậc sau đại học), đây đều là những nhóm người không tiêu biểu trong lĩnh vực STEM trên toàn quốc.
Theo trang web của chương trình, STEM AP bắt đầu vào năm 2014 với sự tài trợ của Văn phòng Chủ tịch UMass (UMass President’s Office). Khoản hỗ trợ 987.000 đô-la Mỹ của NSF đã giúp chương trình này phát triển trong trường, đồng thời giúp gia tăng sức ảnh hưởng ra ngoài trường.
Ngoài UMass, khoản trợ cấp sẽ tạo điều kiện cho sự hợp tác với trường Cao đẳng Cộng đồng Holyoke và Đại học Massachusetts Boston để phát triển hai mô hình chương trình phù hợp với mỗi trường.
Theo Giám đốc chương trình STEM AP, tiến sĩ Carolyn Gardner, đối với khoản tài trợ này, chương trình đặt ra hai mục tiêu – cải tiến chương trình hiện tại để nâng cao năng lực đồng thời mở rộng sang các khuôn viên trường học khác, và một phần nghiên cứu quan trọng được xây dựng dựa trên các nghiên cứu khác, nhằm xem xét các biến số ảnh hưởng đến tỷ lệ lưu giữ sinh viên thuộc các ngành STEM.
STEM AP vẫn còn là một chương trình tương đối mới. Vì vậy, một phần khoản hỗ trợ sẽ tập trung vào việc đánh giá các cách thức mà qua đó, chương trình này đã đáp ứng thành công nhu cầu của sinh viên, và các cách thức mà qua đó, chương trình có thể đáp ứng sinh viên tốt hơn. Đây sẽ là lần đầu tiên chương trình bắt tay vào việc tự đánh giá một cách hoàn chỉnh với mong muốn thu thập thông tin chi tiết và hữu dụng để mở rộng sức ảnh hưởng đến với sinh viên trong và ngoài trường.
Những khởi đầu mới cho STEM AP
Nhóm quản trị của chương trình bao gồm những người có kinh nghiệm trong ngành STEM. Ba năm trước, Riley khởi động chương trình trong khoa sinh học với hy vọng giải quyết một số bất bình đẳng trong việc theo đuổi sự nghiệp ngành STEM, đặc biệt là sự khan hiếm cơ hội nghiên cứu bậc đại học.
Gardner và Allison (Ally) Hunter, một trợ lý nghiên cứu, lần lượt được đào tạo như một kỹ sư và một nhà sinh vật học. Họ, như những nhà giáo dục ngành STEM, đều đã lựa chọn nguồn gốc khoa học để tác động đến các kỹ sư, các nhà khoa học và toán học tương lai. Gardner là giám đốc dẫn đầu các hoạt động hằng ngày, đồng thời lập kế hoạch và thực hiện những thay đổi dài hạn liên quan. Hunter, một nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ tại UMass, sẽ tiếp tục tiến hành dự án sau khi tốt nghiệp với học vị nghiên cứu sinh bậc sau tiến sĩ, tiến hành nghiên cứu theo thời gian trong phạm vi diện rộng bằng cách sử dụng dữ liệu định tính và định lượng phân tích các loại biến ngữ cảnh quan trọng trong việc duy trì STEM.
Với tư cách là một nhà nghiên cứu giáo dục, McEneaney dự định “lập hồ sơ một cách có hệ thống hơn so với [chương trình đã làm] trước đây…những ảnh hưởng của chương trình, những phương pháp mà sinh viên trong chương trình cảm thấy có hoặc không có tính hỗ trợ, vì vậy theo thời gian, chúng ta có thể tìm ra cách để thay đổi và củng cố chương trình.” Ngoài ra, McEneaney sẽ tiến hành việc mở rộng phạm vi tới trường Cao đẳng Cộng đồng Holyoke và UMass Boston.
Trong sự nghiệp của mình với tư cách là một giáo viên toán học và khoa học bậc trung học, McEneaney đã chứng kiến sự chênh lệch số lượng học sinh nam và nữ trong các lớp học dựa trên điểm số, thái độ đối với thành tựu học tập và qua sự nhiệt tình đối với môn học, một trong những kinh nghiệm đã khiến McEneaney quan tâm đến sự bình đẳng trong lĩnh vực STEM.
Mục tiêu của chương trình STEM AP
Một phần của việc mở rộng STEM AP là giới thiệu cho sinh viên những tiềm năng sự nghiệp của việc giảng dạy, ngoài những ngành nghề liên quan đến khoa học chuyên môn,. McEneany và Gardner đã thảo luận về tầm quan trọng của sự tiếp xúc giữa học sinh trung học và sinh viên đại học với các giáo viên và giáo sư giống như họ, giúp sinh viên dễ dàng nhận ra họ cũng có những vai trò tương tự.
Ngoài ra, chương trình cũng hy vọng sẽ nâng cao năng lực của họ thông qua khoản tài trợ này, bao gồm cả việc sẽ có thêm nhiều cơ hội nghiên cứu để đáp ứng việc gia tăng số lượng người tham gia chương trình. STEM AP cũng sẽ tiếp tục làm việc cùng với các sinh viên khuyết tật và sinh viên thuộc cộng đồng LGBTQ+ để phát triển sự đa dạng của chương trình.
“Chủ ý ở đây chính là nếu chúng tôi xây dựng một cộng đồng đón nhận tất cả các học giả, sinh viên, chúng tôi muốn định nghĩa của “inclusive” sẽ được hiểu là tất cả mọi người đều cảm thấy được hoan nghênh trong lĩnh vực STEM,” Hunter nói.
Trong học kỳ này, chương trình đã gia tăng về số lượng các điều kiện, dịch vụ mà các sinh viên năm nhất với kinh nghiệm tích lũy được qua khóa học về nghiên cứu bậc đại học (a course-based undergraduate research experience – CURE) nhận được. Mặc dù học kỳ này chỉ có một khóa học (nghiên cứu về sự kháng kháng sinh) được cung cấp, mục tiêu chính vẫn là cung cấp nhiều khóa học nghiên cứu về các chủ đề khác nhau trong tương lai.
Hiện nay, chương trình đang làm việc với khoảng 18 giảng viên thuộc các khoa ngành STEM tại UMass để đưa các sinh viên khóa trên vào làm việc trong các phòng thí nghiệm nghiên cứu. Theo Hunter, có một sự tương quan tuyệt đối giữa việc tham gia nghiên cứu và việc lưu giữ sinh viên trong ngành STEM.
Coralys Galindez, sinh viên năm nhất nghiên cứu về vi sinh học trong chương trình đã tiến hành nghiên cứu tại trường trong suốt mùa hè.
“Mùa hè vừa rồi, tôi đã rất vinh dự được làm việc cùng với Ally Hunter trong một số nghiên cứu của cô ấy nhằm giúp đỡ sinh viên tiếp thu các chủ đề được giảng dạy trên lớp bằng cách áp dụng chúng vào các tình huống thực tế,” Galindez nói.
“Trong khoảng thời gian nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, tôi đã tích lũy được nhiều kiến thức về cách sử dụng thiết bị phòng thí nghiệm, kỹ thuật nuôi cấy tế bào, và nhiều kỹ năng hữu dụng khác. Quan trọng nhất chính là chương trình này đã giúp tôi tích lũy những trải nghiệm của một nghiên cứu sinh bậc đại học trong việc nghiên cứu đời sống thực tế, những trải nghiệm vô cùng giá trị trong môi trường đầy tính cạnh tranh hiện nay. Hơn nữa, tôi đã có cơ hội được gặp gỡ những người có cùng sở thích, mối quan tâm với mình, và đang phấn đấu để có được thành công trong lĩnh vực STEM của riêng họ.”
Định nghĩa về thành công của STEM AP bao gồm việc sinh viên gắn bó với một ngành STEM, không nhất thiết là ngành mà ban đầu họ chọn. Nghiên cứu của Hunter sẽ xem xét mối liên kết giữa khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, mối liên kết sẽ chấp nhận những hướng thay đổi khác nhau dành cho sinh viên trong nhóm ngành STEM, bao gồm việc đổi ngành hoặc nghỉ học một thời gian trước khi quay trở lại trường.
Rashida Krigger, trợ lý giám đốc chương trình, chia sẻ về tác động của STEM AP. Krigger đã chuyển đến UMass sau khi trở thành một sinh viên ưu tú tại trường Cao đẳng Cộng đồng Kỹ thuật Springfield (STCC). Với nguồn tài nguyên hạn chế dành cho sinh viên chuyển tiếp của trường Đại học, Krigger đã không phát triển được như những gì cô đã có được tại STCC và cuối cùng đã rời UMass.
“Trước khi tôi biết đến STEM AP, không có gì có thể làm cho [việc quay trở lại] tốt hơn so với lần trước,” Krigger cho biết.
Bây giờ, khi làm việc cho chương trình, Krigger nhìn thấy được cách mà chương trình này “đã giúp đỡ các sinh viên bậc đại học trong ngành STEM có một kế hoạch tốt, thu được những kinh nghiệm nghiên cứu mà họ cần, và đưa họ đến với vị trí mà tôi thấy mình sẽ ở đó nếu lúc trước tôi nhận được sự hỗ trợ này.”
“Tôi thấy chính bản thân mình ở mỗi sinh viên và tôi rất vui khi được cung cấp những thứ mà tôi đã không có cho họ. Và tôi rất vui mừng khi quay trở lại để có được những nguồn tài nguyên này, có cộng đồng này, và để biết tôi đang đi về đâu,” Krigger nói.
Mạng lưới và hệ thống hỗ trợ
Một trong những nguồn tài nguyên mà chương trình cung cấp cho sinh viên của họ là một mạng lưới vững chắc bao gồm những người cố vấn là các sinh viên bậc đại học và sau đại học. Tất cả các sinh viên năm nhất của chương trình sẽ được kết nối với một cố vấn là sinh viên năm ba hoặc năm cuối; sinh viên bậc sau đại học sẽ cung cấp hỗ trợ bổ sung.
Shelby Phillips, một trong những sinh viên của chương trình cho rằng mạng lưới hỗ trợ này đã khuyến khích cô có thêm sự tự tin để tiếp tục theo đuổi một học vị trong ngành sinh học.
“Đôi khi rất khó để có thể ngừng việc nghi ngờ trình độ và khả năng của bản thân, nhưng mùa hè vừa rồi, nhờ có chương trình này, tôi đã có cơ hội sống trong trường và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm,” Phillips cho biết: “Phòng thí nghiệm đã tin tưởng giao phó cho tôi những số liệu thực tế và điều đó đã giúp tôi tự tin hơn vì tôi biết rằng, tôi đã được tin tưởng để được giao phó những mẫu vật mà phải mất một thời gian dài mới có được.”
Phillips cho biết thêm, “tôi thực sự rất biết ơn chương trình Đại sứ STEM không chỉ bởi những mối liên kết mà họ cung cấp cho tôi, mà còn vì mối quan hệ gần gũi giữa cố vấn và sinh viên mà họ đã mang lại.”
Gardner, Riley, Hunter và McEneaney đã nói về tầm quan trọng của sự cho, trao tặng dành cho các sinh viên ngành STEM, đặc biệt là những sinh viên thuộc nhóm người không tiêu biểu, và hệ thống hỗ trợ là cần thiết để nâng cao sự tự tin về khả năng của họ như những nhà khoa học, kỹ sư hay các nhà toán học.
Riley nói về mong muốn lâu dài của chương trình: “Ngay bây giờ, chúng tôi tập trung vào những mục tiêu là những người cần sự hỗ trợ nhất. Nhưng tầm nhìn xa hơn của tôi sẽ là tất cả những người nộp đơn vào UMass sẽ đều được tiếp cận với chương trình này. Và tôi cũng mong muốn chương trình này sẽ xuất hiện ở UMass Boston và UMass Lowell, và có thể là trên toàn quốc…Liệu chúng ta có thể giúp chương trình này đến với tất cả các cơ sở giáo dục công lập tại Massachusetts trong vòng 5 năm tới? Đó chính là mục tiêu của tôi.”